Ngót chục năm nay, có một chàng thanh niên mũ lá chụp đầu, bị cói quàng lưng, guồng trên chiếc xe đạp cà tàng vượt núi, luồn rừng đến 210 bản làng ở hai huyện A Lưới (Thừa Thiên-Huế) và Đakrông (Quảng Trị) giữa đại ngàn Trường Sơn để sưu tầm 1.119 hiện vật cùng hơn 1.000 câu chuyện cổ của đồng bào dân tộc Tà Ôi mang về nhà mình. Anh là Trần Nguyễn Thanh Phong, 32 tuổi, giáo viên Ngữ văn Trường THPT A Lưới.
 |
Quả bầu dùng làm bình uống rượu của đồng bào Tà Ôi được thầy giáo Phong cất giữ rất cẩn thận trong “bảo tàng” rộng 9m2 của mình ở khu tập thể trường THPT A Lưới |
Xây “Bảo tàng người Tà Ôi”
Trong căn phòng áng chừng 9 m2 “kiêm” luôn... “Bảo tàng người Tà Ôi” của mình ở khu tập thể Trường THPT A Lưới áp bên đường Hồ Chí Minh một sáng đẹp trời thượng tuần tháng Tư, mọi mệt mỏi bơ phờ sau chặng đường dài gần 200 cây số đèo dốc từ thị xã Đông Hà lên bằng xe máy của chúng tôi bỗng chốc tan biến khi bị hút vào câu chuyện của thầy giáo dạy Văn trẻ Trần Nguyễn Thanh Phong này...
Bảy năm trước, chàng sinh viên Thanh Phong làm đơn tình nguyện lên huyện miền núi A Lưới dạy học sau khi tốt nghiệp ngành Văn Đại học Khoa học Huế, trước sự ngỡ ngàng của nhiều người.
Kể từ ngày đó, hình bóng chàng trai trẻ ấy gắn với bản làng, với từng con suối ngọn núi, với từng người Tà Ôi nơi miền rẻo cao A Lưới, Đakrông.
“Là dân văn chương nên tôi rất “mê” khảo cổ học, thích tìm hiểu những phong tục tập quán của người dân tộc thiểu số. Những sự tích cổ xưa và những cái gì thuộc về quá khứ, tôi đều muốn tìm ra lời giải đáp. Có bao nhiêu tiền tôi đều “ném” vào mua sách hết.” – Phong tâm sự đến nay anh đã “tậu” non 3.000 đầu sách viết về dân tộc, bảo tồn-bảo tàng, văn hóa và phong tục tập quán người dân tộc…”.
Lên dạy học ở Trường THPT A Lưới, anh lao ngay vào tìm hiểu phong tục tập quán của người Tà Ôi. Phong được gắn cho cái biệt danh là “gàn” cũng bởi những việc làm “quái dị, dở hơi, khác người” của mình.
Những hiện vật của bà con Tà Ôi vứt lăn lóc, lãng quên, Phong đều xin về cất giữ cẩn thận. “Lúc đầu tôi chỉ muốn tìm hiểu phong tục tập quán của người Tà Ôi để giải đáp khi bạn bè hỏi, hay cố kiếm những món đồ dùng làm quà lưu niệm tặng người thân. Thế nhưng càng đi, càng hiểu, càng sưu tầm, tôi lại càng bị nó mê hoặc. Không dứt ra được” – anh kể.
Gần chục năm lặn lội đi qua 210 bản làng ở A Lưới và Đakrông, Phong đã sưu tầm được 1.119 hiện vật, 3.000 bức ảnh về quá khứ và hiện tại cùng gần với 1.000 câu chuyện cổ của người Tà Ôi do các già làng kể lại. Phong thuyết trình: “Loại bát đất này chỉ còn duy nhất một cái này thôi.
Đây là chiếc bát cổ, quý lắm! Nó mang dấu ấn của thời đồ đá của người Tà Ôi cổ xưa. Sau 5 lần ra vào xã A Vao ở Đakrông tỉnh Quảng Trị, thuyết phục một già làng, tôi mới mua được với giá 500 ngàn đồng”. Chiếc bát đất ấy được Phong cất giữ rất kỹ trong một chiếc hộp giấu dưới đầu giường ngủ. Anh nói, đây là bảo vật giúp anh “giải mã” được những gì xảy ra đối với người Tà Ôi cổ xưa...
“Vẽ chân dung” người Tà Ôi
Gia tài Phong “gàn” không chỉ có 1.119 hiện vật sưu tầm được mà anh còn có cả một “kho văn hóa” người Tà Ôi. Phong dành hết thời gian gần chục năm của mình để nghiên cứu vốn văn hóa, phong tục tập quán của người Tà Ôi.
Anh đã có 200 bài báo, 10 cuốn kỷ yếu và 100 bài nghiên cứu về người Tà Ôi được đăng tải trên tạp chí khoa học Trung ương và địa phương. Anh đặc biệt mê những truyện cổ người Tà Ôi, cố gắng “giải mã” những bí ẩn qua những câu chuyện cổ. Gần 1.000 câu chuyện cổ của người Tà Ôi qua lời kể của các già làng ở 210 thôn bản được anh biên soạn và in thành sách.
Năm 2005, cuốn sách song ngữ đầu tay của anh được xuất bản mang tên Truyện cổ người Tà Ôi (NXB Thuận hóa), gồm 33 truyện cổ do anh sưu tầm từ lời kể các già làng. Cuốn sách này đã đoạt giải sách hay của Hội Xuất bản Việt Nam vào năm đó.
Sang năm 2006 anh cho xuất bản cuốn Chàng Phuật Nà, với 26 truyện cổ. Qua năm 2007 lại in thêm hai cuốn Apok Sầu Arâu Kônh và Người Tà Ôi… Hiện Phong đã hoàn tất bản thảo và đang cho in cuốn Được mang họ Bác Hồ.
Tuy chưa học một tiết nào về bảo tàng hay dân tộc học nhưng việc thu thập hiện vật và cách tiếp cận văn hóa Tà Ôi của anh được tiến hành rất bài bản và có cơ sở khoa học.
Mỗi hiện vật sưu tầm đều mang lý lịch đầy đủ, từ tên gọi, công năng sử dụng, chất liệu, địa điểm sưu tầm, chủ nhân giao nhận hiện vật, đến ý nghĩa nhân văn và ý nghĩa tâm linh của hiện vật được anh ghi chép đầy đủ. Những câu truyện cổ cũng vậy, tất cả được anh ghi chép, thu âm đầy đủ sau đó thức trắng đêm để dịch và biên soạn in sách…
Cầm cái váy Dzèng làm bằng chì, Phong khoe: “Chiếc váy này chỉ một vài gia đình thật giàu trong vùng này có. Nó được làm bằng chì rất quý hiếm. Họ quyết định bán cho tôi với giá một triệu rưỡi. Mất cả tháng lương đó anh, nhưng mừng ơi là mừng…”.
Thế là Phong có thêm một câu chuyện về chiếc áo quý. Và cứ vậy, anh đang “vẽ” nên một chân dung đồng bào A Lưới từ quá khứ đến hiện tại qua những câu chuyện kể...
Những chuyến đi nhớ đời
Để có thể “giải mã” được những nét văn hóa độc đáo của người Tà Ôi, đầu tiên Phong phải học “ngoại ngữ”, tức học tiếng lẫn học cái ăn, cái mặc và cách ứng xử của người Tà Ôi. Phong bảo, không biết tiếng dân tộc thì khó gần được bà con. Có gần, có biết tiếng thì bà con mới hiểu, mới thương thì mình mới làm được việc.
Phương châm “đụng đâu... hỏi đó”, “đi, ăn, ở” cùng người Tà Ôi, sau 3 năm anh đã giao tiếp được với người dân thôn bản bằng tiếng Tà Ôi thành thạo. “Đã có nhiều người cho tôi là gàn, là điên, là người dở hơi mới làm như thế.
Có bao nhiêu thời gian, tiền bạc, sức lực tôi đều “ném” cả vào gia sản không mang lại lợi nhuận gì. Ngày đi, đêm về, thức trắng để xử lý, nghiên cứu. Thú thực, tôi đã không còn thời gian để đi làm việc gì khác ngoài dạy học và nghiên cứu người Tà Ôi” - Phong cười cười.
Ngót chục năm trời gắn bó với mảnh đất và con người Tà Ôi, anh đã bị mê hoặc bởi những điều bí ẩn của con người và vùng đất nơi đây. Có những chuyến đi điền giã mà Phong không thể quên được. Một lần đi sưu tầm hiện vật, trời chập choạng tối, trên đường thồ hiện vật từ xã A Roàng về nhà, quãng đường dài hơn 30 cây số nữa nhưng chiếc xe đạp lại trở chứng, chịu không nổi sức nặng, xích đứt giữa rừng.
Hôm đó, Phong phải dắt xe cuốc bộ lò mò hơn chục cây số mới đến được nhà dân xin ngủ nhờ qua đêm, hôm sau tiếp tục dắt xe cuốc bộ cả chục cây số đường rừng nữa mới về đến nhà mình.
Những ngày nghỉ, ngày lễ là anh rong ruổi khắp bản làng. Nơi đâu có người Tà Ôi sinh sống thì nơi đó in dấu bước chân của thầy giáo trẻ Phong. Cùng với chiếc xe đạp cà tàng có từ thời sinh viên, anh đã đi qua không biết bao ngọn đồi, con suối, và ngủ trong rừng bao nhiêu lần anh cũng không còn nhớ rõ nữa.
Chỉ biết rằng sẽ có thêm một hiện vật, thêm vốn văn hoá của người Tà Ôi để làm giàu “gia tài” là anh đến. Tất cả những gì liên quan đến đời sống người Tà Ôi, anh đều “ôm” về.
Từ nông cụ, ngư cụ như anóc, anúa (vợt xúc cá), aruồng (cái lừ đơm cá), apậc (cây gậy thọc xuống ruộng để trồng lúa), tupal (cối giã gạo), ate (cái gùi) hay đồ đựng thức uống như cái dằng (bình rượu), tinả alịt (cái máng lợn ăn), cái cung tên... cho đến các sản phẩm văn hóa như tượng nhà mồ bằng gỗ, tấm áo Dzèng, chiếc khố, lễ vật cưới hỏi của người Tà Ôi, chiếc khuyên tai bằng ngà voi... Chiếc xe đạp cà tàng lại phải gồng mình chở “hàng” về.
Ngày đi, đêm về nghiên cứu, biên soạn. Cứ thế, cứ thế, “gia tài” của gã Phong “gàn” giàu thêm từng ngày, từng ngày...