Một thuở tài hoa.
Ở nước ta, một thời gian dài khi lối văn chương cử nghiệp và Nho học còn thịnh hành, thơ Đường luật - mà đặc biệt là thể thất ngôn bát cú - vẫn là thể thơ quen thuộc, được đa số thi nhân ưa chuộng để giãi bày tâm sự, gởi gắm tâm tình. Người yêu thơ hẳn không quên những bài thơ về tình quê, tình bạn, về mùa thu đặc sắc của Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, những bài thơ tự trào “cười ra nước mắt” của ông Tú Vị Xuyên Trần Tế Xương, cũng như những bài thơ tức tối cảnh nghèo của Nguyễn Công Trứ, những bài vịnh Truyện Kiều Thanh Tâm Tài Nhân thi tập tài hoa, sắc sảo của Chu Mạnh Trinh...
Nhưng rồi đã có lúc thơ Đường trở nên “chuyện của một thời” khi Nho học cáo chung và Tây học phát triển vào các thập niên đầu thế kỷ XX. Đã có lúc người ta quên bẵng hoặc xếp gọn thơ Đường vào một góc riêng kín đáo. Đã có một thời thơ Đường luật bước lùi êm ái vào sân sau, nhường lại sân trước cho thơ tự do và thơ mới. Biết bao thể tài cách tân mới mẻ đã tạo nên bầu khí mới cho thơ. Và thơ Đường lối cổ đã nghiễm nhiên trở thành... biểu tượng cho sự trói buộc, gò bó vào trong khuôn phép, niêm luật đối vần... chặt chẽ, nghiêm ngặt, cho những chữ nghĩa ước lệ gầy gò, với những công thức sáo mòn cùng bao vần vèo cũ kỹ?
Đã có không ít nỗ lực phục hồi cho mùa thơ cổ điển, với các thi phẩm của Quách Tấn, Vũ Hoàng Chương, Bùi Khánh Đản, Giản Chi và nhiều nhà thơ khác vào những năm 1960. Nhưng rồi tất cả chỉ dừng lại ở đó và không hứa hẹn gì thêm về một vụ mùa bội thu mới...
Rồi một thời lặng lẽ.
Mấy mươi năm lại đây, thơ Đường luật xuất hiện không nhiều. Thi thoảng mới có đôi khoảnh vườn hay “góc thơ Đường luật” khiêm tốn góp mặt trên các báo một cách âm thầm, lặng lẽ. Nhưng thơ Đường vẫn còn đó, với bao cuộc xướng hoạ mở ra thu hút người yêu thơ ở khắp mọi miền đất nước, với bao tuyển tập thơ dày, mỏng liên tục được in ấn, trình làng. Trong Nam, ngoài Bắc, các câu lạc bộ thơ Đường ở trong hoặc ngoài các nhà văn hoá, trung tâm văn hoá, ở các tỉnh, thành, huyện, thị lớn nhỏ... quy tụ khá đông đảo hội viên đủ các lứa tuổi, trong đó phần lớn thuộc lớp trung và cao niên. Vẫn sôi nổi xướng - hoạ, rôm rả in ấn lưu hành nội bộ hoặc phát hành rộng khắp các tuyển thơ với đủ loại đề tài. Trữ tình với tình bạn bè, đôi lứa, về duyên phận... hay về đủ thứ chuyện trên đời, như công danh, phú quý, kỷ niệm, mừng thọ, mừng tuổi, mừng bạn có tác phẩm mới trình làng... Nghĩa là nói chung, thơ Đường luật vẫn có mặt trên từng cây số, cảm xúc, buồn vui theo thế sự nhân tình, vừa vị nhân sinh đồng thời cũng vừa hết mình vì nghệ thuật!
Thế nhưng, công bằng mà nói, đa số tác phẩm thơ Đường luật mới sau này chưa thật sự gây cảm xúc và ấn tượng nơi người yêu thơ, bởi còn ít mặn mà với các tìm tòi, sáng tạo nghệ thuật, các biện pháp tu từ, làm mới hình tượng, ngôn ngữ, chưa kể một số không nhỏ bài thơ còn nặng tính cách thù tạc, lễ tân, chỉ khép mình tròn trịa bên các thủ pháp nghệ thuật hay bị niêm-luật-đối-vần chi phối nặng nề!
Thơ Đường... vẫn còn đó
Nhưng, dù sao, trong thời buổi thông tin bùng nổ, nối mạng toàn cầu, bốn-bể-một-nhà như ngày nay, thì thể thơ Đường luật ra đời cách đây trên cả nghìn năm vẫn âm thầm góp mặt và vẫn đi “bên cạnh cuộc đời” cho dù lòng người yêu thơ đó đây đã ít nhiều tỏ ra hờ hững!
Thơ Đường giữa thiên niên kỷ mới này vẫn hàm chứa nét duyên ngầm và có một sức hút riêng. Làm thơ Đường luật, một cách nào đó, vẫn là một thú vui tao nhã, một trò chơi trí tuệ, là nẻo đường về với nội tâm trong nỗ lực, khát khao chinh phục hay hoà đồng cùng thế giới. Gói ghém bao quan niệm, tư tưởng triết lý cùng mối cảm xúc trước vũ trụ, nhân sinh chỉ vỏn vẹn trong 56 chữ (8 câu 7 chữ) đó là cả một hành trình sáng tạo. Miễn sao người làm thơ không gượng ép “sắp chữ lựa vần” hay máy móc rập khuôn theo bao lối mòn truyền thống một cách lười biếng, dễ dãi.
Phải chăng không hề có thơ cũ hay mới một cách thuần lý mà chỉ có thơ dở với hay? Nhất là một khi thi nhân chắt chiu, chọn lọc ngôn từ và tìm ra được các từ “đắc địa” nhất...
Xin mời bạn thử đọc:
Dang dở
Nhỡ hái cho nhau những trái sầu
Tình ta đành để lạnh mưa ngâu
Mênh mông con nước chia bờ mộng
Lặng lẽ đàn chim bỏ nhịp cầu
Chẳng phải em xưa lười dệt cửi
Đâu vì ta trước biếng chăn trâu
Lạc loài hai đứa hai phương nhớ
Mấy bận sương thu nhuộm mái đầu!
Mười năm cách biệt
Thiếu vắng mười năm em với ta
Mười năm mà ngỡ mới hôm qua!
Em chưa chải hết sầu trên tóc
Ta đã chôn rồi mộng dưới hoa.
Vẫn nhớ vẫn thương mà cách trở
Dẫu cười dẫu khóc cũng chia xa
Con tim vô tội chưa ngừng đập
Thì chút tình xưa mãi thiết tha...
Đó là hai bài thơ (Đường luật thất ngôn bát cú) của anh Đinh Vũ Ngọc, một nhà thơ đang sống ở phố cổ Hội An, đã chép tặng tôi trên 12 năm trước. Phải chăng đó là câu trả lời cho câu hỏi khá ngậm ngùi: Ai bảo thơ Đường không có Mật?